Hình Ý Quyền

Hình Ý Quyền là một trong ba môn quyền thuật nội gia Trung Quốc, các môn khác là Thái Cực Quyền và Bát Quái Chưởng. Những môn quyền thuật nội gia này khác với Thiếu Lâm và những môn ngoại gia khác như Karate ở chỗ khả năng vận dụng quyền thuật phụ thuộc vào việc phát triển và sử dụng khí (năng lượng bên trong) chứ không chỉ ở sức mạnh cơ bắp. Nội gia quyền phát triển và sử dụng các gân, dây chằng, trong khi đó ngoại gia trọng tâm vào việc sử dụng hệ thống cơ lớn ở phía ngoài.

Hình Ý Quyền là môn quyền thuật có nguồn gốc từ Đạo gia. Nó được phát triển dựa vào sự hợp nhất thân thể và tâm ý làm thành một. Tên gọi “Hình Ý Quyền” được hiểu môn quyền thuật với sự hợp nhất tâm ý và hình quyền. Phần ý vượt trên phần vật lý và bằng cách hòa hợp ý thức và hành động. Hệ thống này, đã hình thành được khoảng 400 năm, có khả năng tự mô tả thông qua tư thế và bài quyền. Luyện tập Hình Ý Quyền thường xuyên phối hợp, nhịp điệu, điều chỉnh cơ thể dẫn đến một sức khỏe tốt là kết quả tự nhiên của việc luyện tập Hình Ý Quyền.

Lý Tồn Nghĩa

5 quyền cơ bản của Hình Ý Quyền được gọi là “Ngũ Hành Quyền” được đặt tên dựa theo 5 nguyên tố: Kim, Thủy, Mộc, Hỏa và Thổ với các thế Phách (bổ), Toản (hất), Băng (khoan), Pháo (đập), Hoành (gạt).

Ngoài 5 quyền cơ bản, Hình Ý Quyền còn có 12 hình dựa vào đặc trưng chiến đấu của 12 loài động vật là: Long, Hổ, Hầu, Mã, Kê (gà), Diêu (ưng nhỏ), Yến (chim), Xà (rắn), Ưng-Hùng, Thai (chim), Đà (cá sấu). Ngoài ra còn có bài ngũ hành liên hoàn quyền, ngũ hành tương sinh, ngũ hành tương khắc và các bài tập khí công.

Lý Tồn Nghĩa sư phụ (1847-1921) là người gốc ở làng Nan Xiao Ying, hạt Shen, tỉnh Hồ Bắc. Lý sư phụ là học trò của Lưu Kỳ Lan (Liu Qi Lan) và Đổng Hải Xuyên đã học thành nghệ cả môn Hình Ý Quyền và Bát Quái Chưởng. Vào những năm 1890 Lý sư phụ làm nghề bảo tiêu ở Bảo Định và Thiên Tân. Ông đào tạo vệ sĩ môn Hình Ý Quyền và Bát Quái Chưởng. Năm 1900 Lý tham gia đội đảo chính, ông một mình dẫn theo nhiều người xông pha vào nhiều trận đánh chống lại các đội quân ngoại quốc. Chuyện kể về ông nói rằng ông “chiến đấu không mệt mỏi khiến máu thấm đẫm hết cả hai vạt tay áo”. Ông thường sử dụng cây đao trong chiến trận và được gọi là “Lý đơn đao”. Học trò xuất sắc nhất của Lý sư phụ là Thượng Vân Tường (1864-1937).

Thượng Vân Tường sinh năm 1864 ở tỉnh Sơn Đông, hạt Le Linh, làng Thượng gia. Khi còn trẻ ông học Thiếu lâm quyền. Năm 21 tuổi ông gặp được Lý Tồn Nghĩa sư phụ và trở thành học trò xuất sắc nhất và là nhân viên trong đội bảo tiêu ở Thiên Tân. Từ Lý sư phụ ông học được Hình Ý Quyền và Bát Quái Chưởng và chuyên sử dụng giáo làm vũ khí. Sau đó Thượng có học một số kĩ thuật Bát Quái Chưởng từ sư phụ nổi tiếng Trình Đình Hoa và học một thời gian với bậc thầy Hình Ý Quyền nổi tiếng Quách Vân Thâm, từ Quách sư phụ, Thượng đã học được bán bộ băng quyền. Ông nhỏ người nhưng rất mạnh mẽ, thường nói to, hay cáu giận và hay đánh. Một người thầy rất khó tính, chuyện kể rằng ông thường vào tay và rất nhiều đệ tử của ông đã bị thương sau những lần luyện tập, có một số người bị thương nặng. Thượng là một người thầy thực dụng và tin vào việc luyện tập cho chiến đấu thực sự. Trong 25 năm dậy võ, ông đã huấn luyện được trên 100 học trò. Một trong những người học trò xuất sắc nhất chính là tướng quân Liu Chi Yuan.

Tướng Quân Liu Chi Yuan là học trò của Thượng Vân Tường, phương pháp dậy của Liu tướng quân cũng gần tương tự như thầy của ông. Sau rất nhiều năm Liu đã đến thành phố Thẩm Dương, và tham gia vào quân đội lãnh chúa ở đây. Sau đó tướng Liu trở thành HLV Trưởng đào tạo võ thuật của binh đoàn đông bắc. Học trò xuất sắc nhất và nổi tiếng nhất của ông chính là Kiều Trường Hồng.

Thượng Vân Tường

Thái Cực Quyền Trần Gia

(Trần Vương Đỉnh Lão giá)

Trần Vương Đỉnh

Trần Trường Hưng

Thái Cực Quyền bắt đầu được chép lại trong các tài liệu chính thức bắt đầu từ thời điểm của Trần Vương Đỉnh. Trần Vương Đỉnh được sinh ra ở tỉnh Hồ Nam phía bắc Trung Quốc vào cuối thế kỷ 16 và là một tướng lĩnh trong quân đội tỉnh Sơn Đông năm 1618. Ông quay trở lại quê quán sau khi triều Minh sụp đổ năm 1644. Sau đó ông bắt đầu dậy Thái Cực Quyền. Ban đầu Thái Cực Quyền bao gồm có 5 bài sáo lộ. Sau nhiều thế hệ rất nhiều các kĩ thuật mới đã được đúc kết và thêm vào, rất nhiều những võ sĩ xuất chúng đã xuất hiện. Cứ sau khoảng 5 thế hệ kể từ Trần Vương Đỉnh thì lại có một võ sư Thái Cực Quyền xuất sắc.

Trần Trường Hưng (1771-1853) đã kết hợp và giản hóa Thái Cực Quyền thành bài quyền Nhất Lộ và Nhị Lộ Pháo Chùy.

Trần Phát Khoa – Tà Hình

Trần Phát Khoa (1887-1957) là con trai của Chen Yan Xi, và là chắt của Trần Trường Hưng. Trần Phát Khoa sinh ra không được khỏe mạnh. Ông ban đầu cũng không phải là một học trò chăm chỉ luyện tập Thái Cực Quyền cho đến khi ông nhận ra rằng quyền thuật của cha mình cần phải được truyền cho một người xứng đáng. Điều này đã thúc đẩy ông luyện tập chăm chỉ, ông được kể lại là đã thức đến tận nửa đêm để luyện tập bí mật cho đến khi thành thạo các kĩ thuật. Ông được công nhận là võ sư khi 17 tuổi. Năm 1907, ở tuổi 20, ông tham gia cuộc thi đấu ở Tiêu Tác và đạt giải nhất. Những lời truyền về tài nghệ của ông đã đến tai lãnh chúa Han Fu Ju, người sau đó đã mời ông về làm quyền sư. Trần từ chối, vị lãnh chúa đã tức giận tấn công Trần với chiếc giáo. Trần dễ dàng phản công, nắm lấy đầu chiếc giáo và phản lại lực của đối phương. Ông sau đó bị tấn công bởi một người khác sử dụng đao và bị cấm dùng tay, ông đã lấy được vũ khí của người này chỉ với đôi chân của mình. Ông được nhớ đến là một người luyện tập rất chăm chỉ, thường luyện tập đến 30 lượt một ngày, và 300 lượt bài tập rung côn. Năm 1928, ông lên Bắc Kinh theo lời mời của người cháu Trần Chiếu Phi. Ông đã xây dựng danh tiếng cho mình khi đả bại những nhân vật nổi tiếng trong giới võ thuật. Sau đó thì Trần gia Thái Cực Quyền trở nên nổi tiếng. Có lẽ đóng góp lớn nhất cho quyền thuật của ông là việc sáng tạo ra dòng “Tân giá” của Thái Cực Trần gia, ông đã bắt đầu dậy Tân giá quyền này từ năm 1940 cho đến khi ông qua đời năm 1957. Ông đã cùng thành lập hiệp hội võ thuật Sơn Tây với Hồ Diệu Trinh (Hu Yao Zhen). Trần Phát Khoa đã dậy rất nhiều những học trò nổi tiếng. Trần Phát Khoa luôn luôn đề cao võ đức trong khi dậy quyền.

 

Trần Phát Khoa

Phan Vịnh Chu

Một trong những học trò của Trần Phát Khoa là Phan Vịnh Chu sư phụ (1905-1996) người bắt đầu học với ông ở Bắc Kinh từ năm 1931. Phan sư phụ sau đó đã di tản đến Đài Loan sau nội chiến Trung Quốc, ở đây ông đã dậy và truyền bá rộng rãi Trần Gia Thái Cực Quyền.

Dưới sự giới thiệu của Đại sư phụ Kiều, Kao sư phụ đã trở thành đệ tử của Phan Vịnh Chu sư phụ và học môn Thái Cực Trần gia.

Thái Cực Quyền – Trần Phán Lĩnh (99)

Trương Tam Phong

Thái Cực Quyền là một môn quyền thuật cổ của Trung Quốc được sử dụng trong chiến đấu và rèn luyện sức khỏe.

Trương Tam Phong, sống vào thời nhà Tống (Thế kỷ 13) được coi là người sáng tạo ra Thái Cực Quyền. Dựa vào các tư thế chiến đấu của xà, hạc và việc luyện tập nội công. Thái Cực có tác dụng rất lớn với sức khỏe. Thường xuyên luyện tập Thái Cực Quyền có thể: tăng cường khả năng chuyển động linh hoạt, sức mạnh cơ bắp, hệ tuần hoàn, khả năng thăng bằng, tư thế cơ thể, khả năng thư giãn và nói chung tăng cường sức khỏe, ngoài ra đây còn là một phương pháp chiến đấu hữu hiệu. Thôi thủ (đẩy tay) là một bài tập hai người của Thái Cực Quyền. Bài tập này phát triển khả năng chiến đấu của Thái Cực Quyền sử dụng khả năng thăng bằng, linh giác, mượn lực đối phương, và kĩ thuật hóa giải một đòn thế tấn công tám lạng bạt ngàn cân khác với việc sử dụng sức mạnh cơ bắp.

Dương gia Thái Cực Quyền

Dương Lộ Thiền

Dương Trừng Phủ

Cho đến tận thế kỷ 19, Thái Cực Quyền vẫn là bí mật chỉ lưu truyền trong gia đình họ Trần. Vào thời gian đó Dương Lộ Thiền (1780-1873) một người Hồ Bắc đã học được Thái Cực Quyền từ Đại Sư Phụ Trần Trường Hưng. Dương sau đó tới Bắc Kinh và trở nên nổi tiếng trong giới võ thuật, ông truyền lại môn quyền thuật này cho các con cháu trong gia đình, những người sau đó đã dậy lại môn này cho cộng đồng. Cháu của Dương Lộ Thiền, Dương Trừng Phủ (1883 – 1935) đã sáng tạo ra bài quyền với các đặc trưng mà ngày nay trở nên phổ biến, được nhiều người biết đến là Dương gia Thái Cực, được thực hiện chậm rãi, trang nhã và có nhiều vòng tròn lớn, tăng cường linh giác và luyện các kỹ thuật một cách chuẩn xác.

Dương gia Thái Cực Quyền

Trương Chi Giang (Chang Chih Chiang 1882 – 1966)

Trung Ương Quốc Thuật Quán được thành lập ở Nam Kinh bởi chính quyền Quốc Dân Đảng năm 1928 nhằm truyền bá võ thuật Trung Quốc. Và là một trung tâm quan trọng của võ thuật vào thời Nam Kinh. Quốc Thuật là một từ để gọi võ thuật được sử dụng vào thời Trung Hoa Dân Quốc. Hội Quán được lãnh đạo bởi 5 võ sư bao gồm Fu Chen Sung, Wan Lai Sheng, Gu Ru Zhang, Lý Liệt Quân (Li Lie Jun 1882-1946), Lý Cảnh Lâm (Li JingLin 1884-1931) và Trương Chi Giang (Chang Chih Chiang 1882 – 1966).

Cùng với Tinh Võ Thể Dục Hội (thành lập năm 1910), hội quán đóng vai trò thiết yếu trong việc truyền bá võ thuật Trung Quốc ở thế kỷ 20.

Tháng 4 – 1928, Hội quán tổ chức giải thi đấu võ thuật đầu tiên ở Bắc Kinh theo thể thức đấu lôi đài. Được chủ trì bởi tướng quân Trương Chi Giang. Cuộc thi đấu đã thu hút hơn 400 võ sĩ xuất sắc nhất Trung Quốc.

Tháng 10 – 1928, Trung Ương Quốc Thuật Quán tổ chức một cuộc thi đấu khác ở Nam Kinh. Sự kiện này được coi là một trong những sư kiện lịch sử của võ học Trung Quốc. Cuộc thi đấu được chủ trì bởi tướng Trương Chi Giang, Lý Liệt Quân, Lý Cảnh Lâm, 600 võ sĩ được chia thành 2 nhánh: Thiếu Lâm và Võ Đang. Sau một vài ngày thi đấu đầu tiên, những cuộc thi đấu đã phải tạm dừng vì có 2 võ sư đã chết và nhiều người khác bị trọng thương. 12 võ sư còn lại cuối cùng không được phép tham gia thi đấu vì lo sợ các bí kíp võ công sẽ bị thất truyền nếu các võ sư bị tử thương và người thắng cuộc được lựa chọn bởi hội đồng trọng tài. Nhiều người nằm trong số 15 người cuối cùng (trong đó có nhiều người là võ sư môn Hình Ý Quyền) đã ở lại dậy võ tại Hội Quán.

Dương Trừng Phủ được chỉ định là người đứng đầu dậy môn Thái Cực Quyền; Tôn Lộc Đường là HLV trưởng môn Hình Ý Quyền; và Phó Chấn Tung (Fu Chen Sung) được chỉ định làm HLV trưởng môn Bát Quái Chưởng.

Năm 1929, thị trưởng tỉnh Quảng Đông đã mời các võ sư của Hội Quán (trong đó có những người đã tham gia thi đấu lôi đài năm 1928) đến phía nam Trung Quốc để lập nên Nam Phương Quốc Thuật Quán. Tướng Lý Cảnh Lâm đã chọn năm sư phụ đại diện cho võ thuật phương bắc: võ sư Bát Quái Chưởng, Phó Chấn Tung, võ sư môn Thiếu Lâm Thiết Chưởng, Cố Nhữ Chương (Gu Ru Zhang), võ sư môn Lục Hợp Quyền, Vạn Lãi Thanh (Wan Lai Shen), võ sư môn Đài Thoái Quyền (Đàn Thối – Tan Tui), Li Shan Wu, võ sư môn Trường Quyền (Cha Chuan), Wang Shao Zhao. Năm vị võ sư này thường được biết đến là Ngũ Hổ Hạ Giang Nam. Năm 1933, một lần nữa hội quán tổ chức cuộc thi đấu quốc gia. Trong đó có luật, “Nếu võ sĩ bị chết do thương tích trong chiến đấu, xác của võ sĩ sẽ được đưa về tận nhà”.

Hiệp hội Thái Cực Quyền Đài Bắc

Những thành viên sáng lập Hiệp Hội Thái Cục Quyền Đài Bắc Trung Hoa.
Trần Phán Lĩnh – Chủ tịch ở giữa hàng đầu.
Kiều Trường Hồng – Giám đốc điều hành ở phía trái.

Có rất nhiều những võ sư nổi tiếng là những người lưu vong và là người của chính phủ đã chạy đến Đài Loan sau cuộc chiến nội chiến Trung Quốc năm 1949. Nhằm gìn giữ các truyền thống võ học, một hiệp hội võ thuật đã được thành lập. Một trong những sáng lập viên là Đại sư phụ Kiều Trường Hồng. Được khởi xướng bởi ủy viên bộ chính trị Trần Phán Lĩnh (một võ sư nổi tiếng người là tổng giáo luyện của Trung Ương Quốc Thuật Quán tại Nam Kinh, đồng thời là cựu tỉnh trưởng tỉnh Hồ Nam và là Hiệu Trưởng trường đại học Cao Hùng) hai thành viên của hiệp hội, những người bạn lâu năm là Đại sư phụ Kiều Trường Hồng và Sư phụ Vương Diên Ninh (Wang Yen Nien), đã quyết định lập một CLB Thái Cực Quyền. CLB được thành lập vào ngày 27-3-1960. Trần Phán Lĩnh là chủ tịch CLB, Kiều Đại sư phụ là giám đốc điều hành, Vương Diên Ninh là HLV Trưởng. Những thành viên khác bao gồm những nhân vật nổi tiếng như Trịnh Mạn Thanh (Cheng Man Ching), Vương Thụ Kim (Wang Shu Chin), Kuo Lien Yin, Hsiung Yang Ho và nhiều người khác. Khi CLB trở nên lớn hơn và có tổ chức, vào năm 1963 CLB đã chuyển thành Học viện nghiên cứu Thái Cực Quyền. Năm 1966, chuyển thành liên đoàn võ thuật độc lập. Đại sư phụ Kiều làm giám đốc điều hành cho đến năm 1975, sau đó thì liên đoàn được sát nhập vào hiệp hội thể thao Đài Loan và đổi tên là Hiệp Hội Thái Cực Quyền Đài Bắc Trung Hoa, và tồn tại cho đến ngày nay như là một nơi gìn giữ Thái Cực Quyền Trung Hoa. Những thành viên đầu tiên của hội đã truyền bá và phát triển Thái Cực Quyền ra khắp thế giới. Đại sư phụ Kiều là một trong những nhân vật quan trọng nhất của thế hệ đầu và là một trong những sáng lập viên của Hiệp hội Thái Cực Quyền Đài Bắc Trung Hoa.

Trần Phán Lĩnh

Trần Phán Lĩnh

Trần Phán Lĩnh sinh năm 1892 và đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu và dậy võ thuật Trung Hoa cho đến khi ông mất năm 1967. Ông là một chuyên gia võ ngoại gia quyền cũng như 3 môn nội gia quyền thuật: Hình Ý Quyền, Bát Quái Chưởng và Thái Cực Quyền. Năm 1940, ông tham gia vào Trung Ương Quốc Thuật Quán và làm phó chủ tịch và chủ tịch hội đồng chuẩn hóa võ thuật truyền thống và phát triển các bài quyền tiêu chuẩn.

Sư phụ của Trần Phán Lĩnh bao gồm: ông học Hình Ý Quyền từ Lý Tồn Nghĩa và Liu Tsai Chen, Bát Quái Chưởng từ Tung Lien-Chi và Cheng Hai-Ting (con Trình Đình Hòa); Thái Cực Quyền từ Ngô Giám Tuyền, Dương Thiếu Hầu, Ji Zu-Xiu và Xu Yu-Sheng. Ông cũng dành một năm (từ 1927 đến 1928) ở làng Trần Gia Câu để nghiên cứu về Trần gia Thái Cực Quyền. Ông còn được đưa vào danh sách của Chen Xin là một trong những người đã đóng góp cho cuốn sách Thái Cực Quyền Trần Gia nổi tiếng của Chen Xin.

Một trong những sự kiện quan trọng của Trung Ương Quốc Thuật Quán là việc thống nhất các bài quyền của Thái Cực Quyền thành một bài duy nhất, được coi là bài quyền chính gốc của Thái Cực Quyền Trung Quốc, sau này được nhắc đến là bài quyền 99 động tác của Trần Phán Lĩnh. Bài quyền Trần Phán Lĩnh là tổng hợp của Thái Cực Quyền Dương gia, Ngô gia, Trần gia. Cũng giống như bài quyền của Dương Trừng Phủ, nó có thể chia thành 6 phần. Ngoài ra, nó có có hơi hướng của bài quyền được Trần sư phụ học từ Dương Thiếu Hầu. Bài quyền 99 là một bài trung giá và thường được luyện tập mà không thực hiện việc phát kình, giống như các bài quyền của Dương và Ngô gia. Ở bài quyền này ảnh hưởng của Dương gia và Ngô gia là rất rõ ràng, ngoài ra thì những động tác xoay eo, hông và triền ty kình là ảnh hưởng từ việc nghiên cứu Thái Cực Quyền Trần gia. Thêm nữa, còn có những động tác thể hiện sự ảnh hưởng từ Hình Ý Quyền và Bát Quái Chưởng.

Sau cách mạng văn hóa, Trần Phán Linh đã dành phần còn lại của cuộc đời sống ở Đài Loan nơi ông được coi là võ sư hàng đầu trong thế hệ của mình. Robert Smith đã nói về ông: “Cho đến tận lúc ông chết ở tuổi 77 năm 1967, Trần Phán Lĩnh không còn nghi ngờ gì là người sở hữu nhiều tri thức, nền tảng, và nguyên lý của quyền thuật Trung Hoa hơn bất cứ ai khác trên thế giới này.” Năm 1963, Trần Phán Lĩnh xuất bản cuốn sách Thái Cực Quyền Chính Gốc. Nó được dịch sang tiếng anh vào năm 1998, cuốn sách của ông là một tư liệu tuyệt vời cho những ai quan tâm đến bài quyền của ông và Thái Cực Quyền nói chung.

Bát Quái Chưởng

Bát Quái Chưởng là một trong ba môn quyền thuật nội gia. Bát Quái đề cao việc hoán đổi lực theo chiều ngang và chuyển chưởng. Tên Bát Quái, do nguyên lý của môn này, bắt nguồn từ học thuyết trong kinh dịch. Học thuyết bát quái đề cao việc thường xuyên biến đổi; tất cả mọi vật đều biến đổi, không có gì dừng lại. Bát Quái Chưởng bao gồm các thế võ đi theo hình tròn được đặt tên dựa theo chuyển động của các con vật xà (rắn), ưng, long, hùng (gấu), kỳ lân, phụng (phượng hoàng), sư tử và hầu (khỉ).

Các nguồn tin cậy cho rằng Bát Quái Chưởng được sáng tạo bởi Đổng Hải Xuyên (1813-1882), người tỉnh Hồ Bắc, Văn An. Đổng Hải Xuyên là người rất yêu thích võ thuật khi còn nhỏ. Khi còn trẻ, ông là một người nghèo và thường xuyên phải đi từ nơi này sang nơi khác để kiếm sống.

Khi Đổng đến núi Cửu Hoa Sơn ở phía nam tỉnh An Huy, ông đã gặp một đạo sĩ có tên Bi Cheng Xia, người đã dậy ông một môn võ bí mật của đạo gia. Sau đó Đổng học được những kĩ thuật khác từ Guo Yuan Ji người có biệt hiệu “Thiết côn đạo sĩ”.

Đổng đã kết hợp các kĩ thuật về quyền thuật học được với thiền định và các bài luyện khí mà ông thực hành khi là một đạo sĩ của phái Toàn Chân thuộc dòng Long Môn. Theo lễ nghi thực hành để chuyển hóa tâm, môn hạ của Long Môn phái phải niệm chú và đi theo vòng tròn. Thực hành này được gọi là “Tế Thiên Toàn Chuyển” (có nghĩa là đi theo vòng tròn để tế trời”) được thực hiện khi đi theo vòng tròn và niệm một hoặc hai câu thần chú khác nhau, một câu buổi sáng và một câu buổi tối. Không có gì phải nghi ngờ về việc đi theo vòng tròn để định tâm này đã trở thành một phần quan trọng trong việc phát triển võ thuật của Đổng, khi ông tổng hợp nhiều kĩ thuật võ thuật khác nhau tạo thành một môn quyền thuật mới.

Môn quyền thuật mà ông phát triển là một phương pháp chiến đấu sử dụng thuyết đạo gia và du già khi đi theo vòng tròn. Nó giúp bình tâm và thân và do việc di chuyển theo vòng tròn đã tạo ra một cuộc cách mạng trong nghệ thuật chiến đấu.

Đổng Hải Xuyên đến Bắc Kinh khoảng năm 1870. Năm 1875 khi vua Quang Tự đến thăm cung của Thành Thân Vương, nơi Đổng bắt đầu dậy kĩ thuật Bát Quái Chưởng, sau đó nhanh chóng trở nên nổi tiếng. Đổng Hải Xuyên có hơn 100 đệ tử nhưng chỉ có 13 người là truyền nhân.

Một trong những truyền nhân của Đổng là Mã Duy Kỳ (Ma Wei Qi 1851-1880). Mã là người Bắc Kinh và là người có tính tình rất nóng nảy. Ông có biệt hiệu là “Môi Mã” (Mã Than) vì ông làm việc trong một cửa hiệu than. Ông thường hay khoe khoang và thường hay biểu diễn kĩ thuật thiết giáo trước khi gặp Thành Thân Vương. Ông có kĩ năng đặc biệt là cú đấm cầu mà thường sau 10 ngày thì đổi thủ mới gặp thương tích nặng, điều này giúp ông tránh khỏi việc liên lụy đến pháp luật. Mã Duy Kỳ được coi là một trong những học trò xuất sắc nhất của Đổng, tuy vậy Mã không nổi tiếng nên ông có rất ít học trò. Mã chết bất ngờ khi còn trẻ và có nhiều giả thuyết về cái chết của ông đến nay vẫn còn tiếp tục. Có giả thuyết cho rằng Mã đã bị hạ độc, sau khi thắng đổi thủ trong một lần thi đấu.

Một trong số ít các học trò của Mã và là học trò xuất sắc nhất là một người tên Yang Ru Lin (Dương Như Lâm?). Yang Ru Lin đã dậy Đại sư phụ Kiều Trường Hồng môn Bát Quái Chưởng vào những năm 1932 khi Yang Ru Lin là quản gia trong gia đình của Kiều sư phụ.

Đơn Hoán Chưởng

Xà Chưởng